Soạn giản lược bài Nhưng nó phải bằng hai mày

  • 1 Đánh giá

Soạn văn 10 bài Nhưng nó phải bằng hai mày giản lược nhất. Bài soạn theo tiêu chí: đơn giản nhất, lược bỏ những phần không cần thiết. Học sinh sẽ soạn bài nhanh, nắm tốt ý chính. Từ đó giúp em tư duy và đa dạng ngôn từ khi cần diễn giải. Kéo xuống dưới để xem nội dung bài soạn.

Nội dung bài soạn

Câu 1:

  • Tình huống tạo sự gay cấn cho cây chuyện là thầy lí đã đồng thời nhận hối lộ từ hai phía. Do đó mà phát sinh mâu thuẫn giữa thầy lí (người nhận hối lộ) và Cải (người đưa hối lộ nhưng bị thầy xử đánh). Khi bị thầy lí xử phạt một chục roi, Cải đã nhắc nhở thầy lí bằng những hành động chứa ấn ý mà chỉ hai người trong cuộc hiểu với nhau. Anh ta “vội xòe năm ngón tay’’ nhắc thầy mình đã lót năm đồng và “ngước mắt lên nhìn thầy’’ chờ đợi. Tuy nhiên không ngờ khi xử kiện, Cải lại bị thầy lí tuyên bố đánh mười roi.
  • Sự độc đáo của câu chuyện chính là sự kết hợp giữa hai thứ "ngôn ngữ". Ngôn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt ở đó nghe. Nhưng thứ "ngôn ngữ" bằng động tác thì chỉ có thầy lí và Cải mới hiểu được:
    • Cải là người đi đút lót lên lời nói “mật” không muốn để lộ ra ngoài.
    • Lí trưởng: thay mặt cho công lí để xử kiện nên ngôn ngữ của thầy là ngôn ngữ công khai trước bàn dân thiên hạ, không sợ không ngại ai.

Câu 2:

  • Tác giả dân gian đã sử dụng thành công lối chơi chữ rất độc đáo: “ phải là phải bằng hai”. Ngay trong truyện ta có thể thấy rằng cái “ phải” của thầy lí được đo bằng tiền. Tiền quyết định lẽ phải. Bởi thế năm đồng là “lẽ phải’’ nhưng mười đồng là “lẽ phải gấp đôi’’, ai đưa nhiều hơn người đó sẽ thắng kiện.

Câu 3:

  • Cải và Ngô vừa là thủ phạm, họ đã tự đút lót cho thầy lí, hành vi tiêu cực ấy đã hủy hoại chính bản thân mình và dần dần hủy hoại đi xã hội.
  • Trái lại Cải và Ngô cũng là nạn nhân cho quan lại dùng đồng tiền để làm giàu cho lối sa đọa, quan triều của một xã hội phong kiến thối nát.
  • Như vậy, sự tham lam của bọn quan lại sẽ càng ngày càng tráo trở hơn nếu còn có những người như Ngô và Cải. Ai cũng muốn đút lót để mình thắng kiện. Trong sự việc này, họ là những kẻ đáng thương nhưng cũng là những người đáng giận.

Phần Luyện tập

Câu 1:

Bài làm tham khảo:

Trong những câu chuyện kể dân gian, ngắn gọn nhưng thú vị nhất có lẽ là truyện cười. Từ trẻ nhỏ hay người lớn khi đọc đều cảm thấy sảng khoái với tiếng cười câu chuyện mang lại. Chính những đặc trưng của thể loại truyện này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Nhưng nó phải bằng hai mày của thể loại truyện nằm trong chính cách xây dựng tình huống truyện. Tình huống truyện cười luôn là những tình huống mâu thuẫn. Truyện bao giờ cũng đặt “cái đáng cười” vào một tình huống để nó tự diễn tiến tự nhiên, nhanh chóng đi đến chỗ gay cấn rồi kết thúc bất ngờ.

Đối với truyện Tam đại con gà, câu chuyện có nhiều hành động và lời nói của thầy đồ có tác dụng gây cười. Các hành động của "Ông thầy" như bảo học trò đọc khe khẽ, vì thầy cũng không chắc là đúng nên phải "thận trọng" để giấu dốt. Hành động thứ hai là xin đài âm dương 3 lần, đây quả là hành động ngược đời. Nếu thầy thực sự là người có tính cầu thị, đúng ra phải hỏi lại người có hiểu biết hơn mình để giảng giải cho học trò rõ nhưng lại tin vào bói toán. Ngồi bệ vệ trên giường, bảo học trò đọc to, đắc chí với sự ngốc nghếch của mình mà không biết.

Lời nói của thầy bao biện khi biết mình sai, đã tạo nên tiếng cười cho câu chuyện: Dủ dỉ là con dù dì, Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà, Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà. Mục đích mọi sự chống chế của thầy là để giấu dốt. Nó ngược hẳn với sự tự nhận thức của thầy ở trên. Chính mâu thuẫn trái tự nhiên này đã tạo ra tiếng cười cho người đọc, người nghe câu chuyện. Các sự kiện được sắp xếp theo trật tự tăng tiến. Mức độ phi lí và sự nực cười của lời nói và hành động ngày càng được đẩy lên cao.
Nét đặc trưng thứ hai của thể loại truyện cười là tính kịch, yếu tố kịch. Mỗi truyện như một màn kịch nhỏ xoay quanh mâu thuẫn gây cười. Trong Tam đại con gà, yếu tố kịch nằm chi tiết thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò hỏi gấp và chi tiết bố học trò đang cuốc đất ngoài vườn, nghe thầy dạy sai, bỏ cuốc chạy vào. Thầy lí bị rơi vào một tình huống khó, phải tìm ngay cách xử trí gấp. Nhưng chính những kịch tính này đã thúc đẩy câu chuyện phát triển, xúc tác cho tình huống truyện diễn ra nhanh chóng, mang đến tiếng cười cho truyện.

Ở truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, kịch tính được thể hiện qua lời nói và động tác giữa hai nhân vật. Cải cảm thấy yên tâm sẽ được thắng kiện vì đã đút lót cho quan, nhưng hành động xử kiện của thầy lí thật bất ngờ, cách giải thích của thầy lí cũng bất ngờ khiến Cải không kịp trở tay, rơi vào tình trạng bi hài, “tiền mất, tật mang”.
Thứ ba, các truyện cười thường có dung lượng ngắn, chi tiết cô động, hành động của nhân vật dứt khoát, kết cấu lôgíc chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc hoặc liên tưởng bất ngờ.

Cả hai truyện cười đã mang lại tiếng cười cho người đọc, nhưng đằng sau mỗi truyện cười lại ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa, đó là tiếng cười đả kích, châm biếm hoặc phê phán những thói hư, tật xấu, những hủ tục lạc hậu. Những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của truyện cười đã góp phần làm nên thành công cho mỗi câu chuyện, Để đến hôm nay, qua biết bao thế hệ, những câu chuyện đó vẫn được ông bà dạy lại cho con cháu như những bài học kinh nghiệm về cách ứng nhân xử thế ở đời.


Trắc nghiệm ngữ văn 10: bài Nhưng nó phải bằng hai mày
  • 3 lượt xem