Cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình qua bài thơ Nói với con Vẻ đẹp người đồng mình trong Nói với con

Nội dung
  • 1 Đánh giá

Cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình qua bài thơ Nói với con của Y Phương với những bài mẫu hay được KhoaHoc chọn lọc và đăng tải, giúp các bạn hoàn thiện bài văn của bản thân hay hơn.

Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong Nói với con - Số 1

Y Phương là nhà thơ quen thuộc với những người miền núi, thơ của ông bình dị, mộc mạc, gần gũi. Bài thơ Nói với con là những lời tâm sự thủ thỉ của người cha dành cho con, đồng thời khuyên con trưởng thành phát huy vẻ đẹp của người đồng mình.

Phần mở đầu bài thơ tác giả đã khái quát cho con về cội nguồn con được sinh ra và nuôi dưỡng chính là trong tình yêu thương của cha mẹ và sự bao bọc, che chở của người đồng mình, của núi rừng thiên nhiên. Sau những lời lẽ hết sức tha thiết ấy, tác giả đi sâu khắc họa những vẻ đẹp của người đồng mình. Qua những vần thơ giản dị, chân thành những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình hiện lên thật rõ nét và đáng trân trọng, tự hào.

Khổ thơ mở đầu bằng câu thơ ngập tràn tình cảm: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. Hai tiếng “người đồng mình” được nhắc lại một lần nữa là cách gọi thể hiện sự gần gũi, thân thương như trong một gia đình. “Thương lắm” – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ. Rồi để sau đó là một loạt những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình được ông đưa ra.

Trước hết họ là những người giàu ý chí nghị lực, kiên cường và bền bỉ:

“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Câu thơ có cách diễn đạt vô cùng độc đáo, nỗi buồn và chí lớn vốn không thể định hình, định lượng nhưng lại được tác giả dùng cao để đo nỗi buồn, xa để đo ý chí của con người. Cách nói trên đã hữu hình hóa những trắc trở, khó khăn mà người đồng mình phải trải qua đồng thời còn cho thấy ý chí quyết tâm của họ. Trước mọi khó khăn, thử thách họ vẫn không ngừng cố gắng, không ngừng vươn lên. Những khó khăn kia chỉ là thuốc thử, tôi rèn ý chí của họ ngày một mạnh mẽ hơn.

Không chỉ có ý chí kiên cường, họ còn thủy chung, yêu quê hương tha thiết: Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói. Nơi họ được sinh ra, lớn lên gặp biết bao khó khăn, trở ngại nhưng tuyệt nhiên họ chưa một lần kêu than. Các từ phủ định “không chê” được lặp lại hai lần kết hợp với điệp từ “sống” cho thấy sức sống bền bỉ, mãnh liệt của người đồng mình trước những gian truân của cuộc sống. Đồng thời lời thơ còn gửi gắm tâm sự, mong muốn của cha đến con: mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với bản làng, quê hương.

Họ còn là người có lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ và luôn luôn lạc quan:

“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Câu thơ ngắn, nhịp nhanh như lời thúc giục động viên. Hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời. Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí, nghị lực của mình. Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin: “người đồng mình tuy thô sơ da thịt…đâu con”. Họ có thể thô sơ, giản dị về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí.

Tự lực tự cường xây dựng quê hương, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Câu thơ đã miêu tả thực công việc thường ngày của họ: đục đá, đẽo đá để “kê cao quê hương”, làm cho quê hương ngày càng giàu đẹp, góp phần nâng cao vị thế quê nhà. Qua đó câu thơ còn ca ngợi tinh thần tự lực, tự cường, chăm chỉ của người đồng mình. Ý nghĩa hơn nó còn mang giá trị tinh thần to lớn “còn quê hương thì làm phong tục”. Ý thơ cho ta thấy một công việc giản dị nhưng trở thành phong tục, nét đặc trưng, biểu tượng của quê hương miền núi. Bởi vậy, câu thơ còn có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng phát triển và bảo vệ cội nguồn. Như vậy, bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó làm hành trang để tự tin vững bước vào đời.

Bằng lớp ngôn từ giản dị, giọng điệu thiết tha tự hào, tác giả đã bộc lộ niềm tự hào sâu sắc về những vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình. Đồng thời qua những lời thơ tha thiết ấy ông còn gửi gắm đến con những lời khuyên những nguyện ước chân thành: con phải sống phóng khoáng tự do, luôn nỗ lực, cố gắng hết mình làm nên vẻ đẹp cho quê hương.

Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong Nói với con - Số 2

Quê hương là đề tài muôn thuở trong thơ ca bởi tình yêu ấy luôn thường trực trong trái tim mỗi người con. Nhà thơ Y Phương, một nhà thơ dân tộc Tày đã thể hiện tình yêu ấy một cách mộc mạc, sâu lắng khi có những cảm nhận về người đồng mình – những người con của quê hương miền núi qua bài bài thơ Nói với con.

Bài thơ Nói với con là một trong những bài thơ hay nhất của Y Phương, được sáng tác năm 1980. Mượn lời tâm sự với con, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền núi. Mở đầu bài thơ, người cha đã gợi nhắc cho con về cội nguồn trong mỗi người, là gia đình và quê hương – nơi chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng ta nên người. Đề rồi từ đó, người cha đã nói với con về “người đồng mình” với sự giản dị và tài hoa trong cuộc sống lao động nơi miền sơn cước:

"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát".

Cách gọi “người đồng mình” vừa gợi ra sự thân thiết, gần gũi vừa gợi ra nét độc đáo chỉ có ở quê hương. Trên mảnh đất thân thương, bức tranh lao động hiện ra với những con người cần mẫn, tươi vui trong tiếng hát. Đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, thoăn thoắt trong điệu “đan”, “cài”, “ken”.. để làm ra những dụng cụ lao động, những mái nhà vững chãi. Những đôi bàn tay lao động chân chất đã góp phần dựng xây quê hương ấm no, hạnh phúc. Dù không có dòng thơ nào nhắc đến họ trong dáng hình nhưng vẻ đẹp của người lao động được gợi ra từ những công việc hàng ngày, đầy tài hoa mà giản dị, đời thường.

Người đồng mình còn có một lẽ sống cao đẹp, biết lo toan và có chí đi lên.

"Người đồng mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn".

Câu nói gần gũi mà thân thương, người cha dạy con biết sẻ chia với người đồng mình qua tiếng hát “Người đồng mình thương lắm con ơi”. Thương cho những gian nan, vất vả họ phải trải qua. Tác giả sử dụng các tính từ “cao”, “xa” để thấy được những khó khăn, gian truân như ngày càng tăng lên, thử thách ý chí và nghị lực của con người. Nỗi buồn, những bộn bề thiếu thống càng nhiều thì ý chí của con người càng lớn, càng mạnh mẽ hơn để vượt qua tất cả. Người cha vừa tự hào về tinh thần, ý chí của người đồng mình, đồng thời cũng gửi gắm ước mong về đứa con sẽ rắn rỏi như truyền thống quê hương.

Không chỉ có vẻ đẹp trong con người và tính cách, người đồng mình còn ngời sán bởi tấm lòng son sắt nghĩa tình, dù gian khổ vẫn một lòng thủy chung, gắn bó với quê hương

“Sống trên đá không chê đá gập gềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”.

Tác giả đã liệt kê các hình ảnh gợi lên sự khó nhọc, vất vả của cuộc sống quê hương “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói”. Thành ngữ dân gian được tác giả sử dụng “Lên thác xuống ghềnh” đã cho thấy những lam lũ, cực nhọc mà người đồng mình đang phải trải qua. Điệp ngữ "sống ... không chê" được lặp lại hai lần, kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Không chỉ vậy, người đồng mình còn hiện lên là những con người chân chất nhưng luôn mạnh mẽ, có nghị lực sống kiên cường với ý thức dựng xây quê hương ngày càng ấm no, giàu mạnh

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Vẫn những lời thơ mộc mạc và giản dị, người cha đã ca ngợi phẩm chất của con người quê hương mình. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn. Những con người “thô sơ da thịt” diễn tả sự chất phác, bình dị, chân chất thôn quê nhưng không hề “nhỏ bé. Ẩn chứa sau dáng hình thô sơ ấy là một tâm hồn yêu quê hương, giàu lòng tự trọng, luôn phấn đấu vì sự phát triển của quê hương

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc mình. Những câu thơ như toát lê niềm tự hào kiêu hãnh về quê hương bởi những bản sắc của quê hương vẫn được lưu giữ và truyền đời cho con cháu mai sau.

Bài thơ được viết với thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình tha thiết xen lẫn niềm tự hào về quê hương. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi với đời sống của người dân miền núi đã khiến bài thơ toát vẻ đẹp mộc mạc mà sâu sắc. Thông qua những lời kể của cha như muốn tiếp thêm sức mạnh cho đứa con về tình yêu quê hương, niềm tự hào về những “người đồng mình” và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Đó còn là niềm chứa chan hi vọng gửi gắm cho thế hệ mai sau về việc gìn giữ và phát huy những truyền thống dân tộc

Qua những lời thơ tâm tình của người cha dành cho con trong bài thơ, hình ảnh của quê hương, của “người đồng mình” hiện lên thật đáng quý biết bao. Đó là dòng suối mát lành nuôi dưỡng tâm hồn và nghị lực cho con. Bài thơ giup thêm yêu, thêm trân trọng những con người đã không quản ngại hi sinh vất vả để quê hương hương, đất nước ngày một giàu mạnh hơn.

Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong Nói với con - Số 3

Là nhà thơ dân tộc Tày, thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.

Ra đời năm 1980, “Nói với con” là một trong những bài thơ hay nhất của ông. Mượn lời tâm sự với con, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền núi.

Tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Y Phương, bài thơ “Nói với con” gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người – gia đình và quê hương – đó là nôi êm tổ ấm nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn con – đó là cội nguồn của hạnh phúc. Để rồi từ trong những ngọt ngào của kỉ niệm quê hương, người cha nói với con những đức tính tốt đẹp của người đồng mình.
Người đồng mình đáng yêu bởi sự giản dị và tài hoa. Trên quê hương thơ mộng nghĩa tình, người đồng mình hiện lên trong cuộc sống lao động cần cù mà tươi vui:

"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát".

Giọng thơ vang lên đầy thiết tha và tự hào. “Người đồng mình” là người bản mình, người quê mình – Y Phương có cách gọi rất độc đáo, rất gần gũi và thân thương về những con người quê hương. Với hình thức câu cảm thán, người đọc cảm nhận lời tâm tình được cất lên tự đáy lòng thương mến của người cha về người đồng mình. Họ đáng yêu bởi họ là những con người yêu lao động. Với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, họ đã “đan”, “cài”, “ken”… cuộc sống như nở hoa dưới đôi bàn tay cần cù, sáng tạo của họ…
Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, nhà thơ giúp ta hình dung được hình ảnh đáng yêu của người đồng mình giữa núi rừng thơ mộng, hiền hòa. Vẻ đẹp của họ được gợi ra từ cuộc sống lao động bình dị, từ bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo. Họ có niềm vui giản dị, tinh tế ngay trong cuộc sống mộc mạc đời thường.
Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước. Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

"Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn".

Với cách nói “Người đồng mình thương lắm con ơi!” người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua. Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.
Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.
Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.

Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh”,“thung nghèo đói” gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc. Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.

Chủ đề liên quan